Tất cả bài viết của Chuyển

TỐ CHẤT ẢNH HƯỞNG SỰ HÌNH THÀNH TRÍ THÔNG MINH CỦA MỖI HỌC SINH

TỐ CHẤT ẢNH HƯỞNG SỰ HÌNH THÀNH

TRÍ THÔNG MINH CỦA MỖI HỌC SINH

 Hình0944

Với bất cứ ai trong nghề làm thầy, nỗi băn khoăn, trăn trở lớn nhất vẫn là làm sao để cho học trò của mình được học tốt lên. Nhất là khi gặp phải những học sinh chưa hoàn thành, gặp khó khăn, cá biệt. Vậy có hay không học trò dốt ? Vì thế bài viết này xin được trao đổi trong một góc nhìn ấy.

Xác định, phân loại để tìm ra tố chất của mỗi học sinh:

Đối với một giáo viên, trước khi thực hiện công việc giảng dạy, điều trước hết là phải tiếp xúc để tìm hiểu học sinh, để từ đó có đánh giá ban đầu về khả năng của các em. Có một điều dễ nhận thấy là khả năng của các học sinh là không đồng nhất. Điều đó là do tố chất của từng em quyết định. Tố chất là những yếu tố cơ bản hình thành trong một con người.

Theo đó, có những học sinh có tố chất thông minh, nhưng có những em lại chậm trong nhận thức. Nhưng, có một điều phải khẳng định rằng khả năng của mỗi con người là khác nhau, do tố chất quyết định. Tố chất của một con người không có ngay từ khi lọt lòng và không phải do gen di truyền, mà tố chất được hình thành dần dần trong quá trình sống của người đó, chịu sự ảnh hưởng và tác động của môi trường sống, truyền thống và nền nếp gia đình, và các yếu tố xã hội khác.

Tố chất của mỗi người ảnh hưởng đến sự hình thành trí thông minh của người đó. Do mỗi người có một tố chất khác nhau nên trí thông minh của họ cũng khác nhau. Tuy nhiên trong giáo dục, có những em còn chậm hiểu khi tiếp cận vấn đề. Điều này là môi trường học tập điều kiện và không khí lớp học đã gây ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, cùng với đó là trạng thái tâm lý, ý thức và tinh thần học tập chung. Do đó, các thầy cô giáo khi dạy những học sinh như vậy cần biết cách gợi mỡ và dẫn dắt vấn đề để các em tiếp cận, tìm hiểu.

Theo một kết quả nghiên cứu của Tiến sĩ Howard Gardner – một nhà tâm lý học kiêm giáo sư khoa học thần kinh tại đại học Harvard cho biết, con người có bao gồm 8 loại trí tuệ khác nhau phản ánh các cách tương tác đa dạng với thế giới và ông tin rằng, mỗi người đều có một sự pha trộn độc đáo giữa những dạng trí tuệ này. Đó là các dạng thông minh gồm, thông minh về không gian, thông minh về vận động cơ thể, thông minh về âm nhạc, thông minh về ngôn ngữ, thông minh về logic toán, thông minh về giao tiếp, thông minh về nội tâm và thông minh về tự nhiên. Trong các dạng thông minh của con người mà GS Howard Gardner nói tới cần chú ý về một dạng thông minh, đó là thông minh về nội tâm. Theo đó, ngững người thuộc dạng thông minh này khá nhạy cảm với cảm xúc và mục tiêu của chính mình. Họ giỏi phát triển điểm mạnh của bản thân và ưa làm việc cá nhân. Dạng này không biểu hiện ở một nghề nghiệp cụ thể, nó là mục tiêu cho mỗi cá nhân trong xã hội phức tạp ngày nay, khi mà con người ta phải tự đưa ra quyết định riêng của mình và chấp nhận đối mặt với kết quả của nó.

Đây là những khía cạnh rất hữu ích trong việc phát hiện và phát triển khả năng của bản thân con người. Đặc biệt đối với trẻ em, khi đó cần có những quan sát xem trẻ có những trí thông minh nào nổi trội và giúp bé nuôi dưỡng đúng hướng và bộc lộ hết khả năng của bản thân. Cũng chính vì thế mà ta có thể thấy khả năng của trẻ được bộc lộ ở nhiều thiên hướng khác nhau chứ không chỉ trong học tập.

Không có gen di truyền trí thông minh:

Theo GS Nguyễn Lẫn Dũng, một chuyên gia hàng đầu về Sinh học thì gen không truyền trí thông minh, có nghĩa là trí thông minh không di truyền theo các thế hệ. Trên thực tế nhiều gia đình có bố mẹ được xem là giỏi giang nhưng con cái lại bị đánh giá là kém cỏi. Và ở nhiều gia đình thuộc thành phần lao động bình thường nhưng con cái lại rất giỏi giang. Những tấm gương học sinh, sinh viên vượt khó, có thành tích rất cao trong học tập xuất thân từ những gia đình nghèo khó là những thí dụ điển hình như thế.

Tuy nhiên, như đã nhận định ở trên, con người có thể có nhiều dạng thông minh khác nhau, và thông minh trong học tập chỉ là một biểu hiện trong số đó. Bởi lẽ, khả năng của con người là luôn luôn phát triển và được biểu hiện dưới nhiều góc độ. Chính sự thông minh của mỗi con người là khác nhau nên sự quan tâm của con người là không giống nhau. Điều đó đã tạo nên sự khác biệt của con người trong nhận thức và thiên hướng hoạt động. Và điều đó cũng để lý giải là vì sao nhiều người không giỏi ở trường lớp nhưng vẫn thành đạt trong cuộc sống. Chính vì thế nên các bố mẹ cũng không nên quá lo lắng khi con mình bị xem là học dốt. Bởi lẽ, khả năng của con người được bộc lộ ở nhiều mặt khác nhau, và cuộc sống sau này sẽ chứng minh điều đó. Dó đó, các bố mẹ hãy thực sự có niềm tin và hiểu con mình.

Phương pháp ứng xử với học sinh gặp khó khăn trong học tập:

Các nghiên cứu gần đây trên thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy, bất kỳ cộng đồng học sinh nào cũng có một bộ phận học sinh có khó khăn trong học tập, bao gồm nhiều nguyên nhân, như: môi trường giáo dục, hoàn cảnh gia đình, đặc thù địa lý, sự khác biệt về ngôn ngữ, bị các dạng khuyết tật (như: khiếm thị, khiếm thính, trí tuệ, rối loạn cảm xúc, …). Đặc biệt, có một nhóm đối tượng học sinh không có biểu hiện của những nguyên nhân trên nhưng vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong học tập. Đó là những em thuộc nhóm đối tượng có khó khăn đặc thù chủ yếu là nghe, nói, đọc, viết, tính toán. Thực tế, nếu nhìn nhận một cách khách quan và khoa học những em đó có thể được đưa vào dạng “khuyết tật học tập”. Đó là những em có kết quả học tập thấp, tuy thế trên thực tế, nhiều em lại không hề thua kém bạn bè đồng trang lứa ở các lĩnh vực khác khi xét trong các mối quan hệ gia đình và xã hội.

Cụ thể, những biểu hiện thường gặp ở học sinh khuyết tật học tập là: khả năng ghi nhớ kém (các em thường quên cách đánh vần, quy tắc chính tả, bảng cửu chương, lời thầy cô dặn dò, ….); khả năng tập trung hạn chế (các em chỉ tập trung được trong thời gian ngắn, thường lơ đãng và bị chi phối bởi những hoạt động xung quanh); các em có tâm lý tự ti, một số khác có hành vi gây gổ, làm ngược lại yêu cầu của giáo viên; những em có khó khăn về đọc thường nhầm lẫn trong việc phân tích âm-vần, nhầm lẫn các chữ cái đối xứng nhau (chữ b, d hay p, q), đọc sai dấu thanh, đọc thêm từ, có những em nhìn hình thì đọc chữ được còn che hình lại không đọc được; …

Mặc khác, những em có khó khăn về viết thường viết chậm, viết xấu, mắc nhiều lỗi chính tả, khả năng sử dụng từ ngữ, lập dàn bài kém. Những em có khả năng về tính toán thì thường không thuộc các bảnng cộng, bảng nhân, bảng chia nên khả năng tính nhẫm kém, làm tính viết thường quên nhớ lẫn lộn.

Cần có nhiều biện pháp giáo dục phù hợp:

Mặc dù hiện tượng học sinh bị khuyết tật học tập là một hiện tượng phổ biến trong tất cả các trường học, mà biểu hiện rõ nhất là ở cấp tiểu học; song trên thực tế, khi được hỏi thì đa số giáo viên trả lời không biết hoặc không có hiểu biết chính xác về đối tượng học sinh bị khuyết tật học tập hoặc có giáo viên biết rõ mà chưa có cách giúp đỡ đạt hiệu quả tốt. Và nhiều ý kiến cho rằng, học sinh khó khăn về tiếp thu kiến thức là do khuyết tật trí tuệ, do lười học, do gia đình không quan tâm, … Từ đó đã đưa ra nhiều biện pháp giúp đỡ không phù hợp như trách phạt, giao bài tập quá sức, bắt các em học bài trong giờ giải lao, … Những biện pháp đó, vô hình dung khiến học sinh đã khó khăn về học tập lại càng khó khăn hơn.

Mặc khác, do không xác định được đây là những học sinh bị khuyết tật học tập nên không có hồ sơ theo dõi riêng; công tác bàn giao giữa giáo viên năm trước và năm sau chưa quan tâm đến các trường hợp này; lâu dần những khó khăn về học tập của các em ngày càng trầm trọng và việc học sinh học hết tiểu học vẫn không biết đọc, biết viết, biết tính toán là có khả năng xảy ra.

Từ đó, nguyên nhân của khuyết tật học tập ở một bộ phận học sinh không phải là các yếu tố khuyết tật bẩm sinh hoặc môi trường giáo dục không phù hợp, mà là do “bên trong” mỗi học sinh, có thể do sự khác biệt hoặc khiếm khuyết của hệ thần kinh trung ương trong quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin trong quá trình học tập (nghe, nói, đọc, viết, tính toán) và học sinh khuyết tật học tập luôn chiếm một tỷ lệ nhất định trong các trường học.

Do đó, trong giáo dục, việc tìm ra sự khác biệt giữa các học sinh để có nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp là rất quan trọng và rất cần thiết. Điều đó quyết định sự thành công và chất lượng giáo dục theo sự phát triển toàn diện ở người học. Như thế, để phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học cần đánh giá đúng tiềm năng phẩm chất và năng lực ở họ để từ đó có sự gợi mở, khai phá thích hợp.

Về mặt sinh học, con người được coi là động vật cao cấp nhất bởi trí não phát triển, cùng với đó là sự thông minh và khả năng nhận thức. Vì thế, từ những luận cứ trên có thể khẳng định, không có học sinh nào dốt mà chỉ có những giáo viên chưa nhìn thấy đúng khả năng, năng lực của học sinh và đã chưa có phương pháp giảng dạy thích hợp cho học sinh của mình.

Không có học sinh dốt, quan trọng là phương pháp giáo dục thích hợp:

 

Trong thực tế sư phạm, phương pháp giảng dạy và giáo dục học sinh là rất quan trọng và rất cần thiết. Khi đó trong quá trình giảng dạy, người thầy cần hiểu đúng các em, nắm bắt đúng các yếu tố tâm lý của các em, để từ đó tạo môi trường học tập thân thiện và gợi mở, xây dựng nội dung và thiết kế phương pháp giảng dạy thích hợp với tùy từng đối tượng học sinh, bởi điều đó sẽ quyết định sự thành công trong sự nghiệp giảng dạy (nghề nghiệp của mình).

Tuy nhiên, ở Việt Nam ta, cơ sở vật chất trường học còn nhiều hạn chế, các lớp học đa phần có sĩ số đông, và điều đó gây không không ít khó khăn cho các thầy cô giáo trong việc nhận diện học sinh, để từ đó tìm ra sự khác biệt giữa các em và tổ chức phương pháp thích hợp.

Đặc biệt, trong một thời gian dài, phương pháp giảng dạy của chúng ta vẫn là lối truyền thụ mang tính áp đặt một chiều, giáo viên là trung tâm của quá trình giảng dạy, diễn ra theo cách thức: thầy nói trò nghe, thầy chép cho ghi, do đó có rất nhiều hạn chế cho việc bảo đảm hiệu quả giáo dục. Vì thế, đây cũng là một gợi mở để chúng ta đổi mới phương pháp giảng dạy và cách tổ chức lớp học. Bởi lẽ, mọi chủ trương cải cách và đổi mới giáo dục suy cho cùng là nhằm đạt đến mục đích để nâng cao hơn chất lượng người học, cùng với đó là sự phát triển và hiệu quả trong việc đào tạo nhân lực-con người.

Vì thế, một lần nữa phải khẳng định rằng, “không có học trò nào dốt, mà chỉ có những thầy giáo chưa biết cách giảng dạy cho học sinh của mình”.

Trên đây là một vài trao đổi để chúng ta cùng nhau tham khảo, đề từ đó các thầy cô cùng có cái nhìn đúng đắn hơn và định hướng tốt hơn cho công việc của mình.

CÁC TỪ NGỮ THƯỜNG ĐƯỢC XUẤT HIỆN TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY

CÁC TỪ NGỮ THƯỜNG ĐƯỢC XUẤT HIỆN 

TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY

patient participation

  1. ĐỒNG TIỀN

Xưa nay, đã có khá nhiều nhà triết học, nhà văn, nhà thơ nói và viết về đồng tiền. Người thì ca ngợi đồng tiền, gói tiền là “chúa tể”, “là tiên là phật”, “là lá bùa hộ mệnh”, là thần thánh” (!). Người thì lên án, kết tội đồng tiền, cho tiền là “vật quỹ quái”, “có ma lực”, đồng tiền gây ra biết bao ghê tỡm, đồng tiền “là con đĩ thập thình” (!).

Hiện nay trong xã hội ta cũng đang có không ít những hiện tượng sống vì tiền, chạy theo đồng tiền. Dưới mắt của một số người, đồng tiền vẫn “là cái đà của danh vọng”, “là cái lọng để che thân”, “là cái cân của công lý” (!).

Đồng tiền là cái gì mà ghê ghớm vậy ? Theo Các Mác, tiền là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất hàng hóa. Nó là một hàng hóa đặc biệt được tách ra làm hai hình thái biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác.

Lúc đầu, chức năng duy nhất của nó chỉ là làm thước đo giá trị, phục vụ cho việc mua bán, trao đổi hàng hóa. Nhưng rồi dần dần, cùng với sự phát triển của sản xuất, tiền được xã hội thừa nhận làm phương tiện lưu thông, rồi phương tiện cất trữ và phương tiện thanh toán.

Tóm lại, đồng tiền chẳng có gì là bí mật và ghê gớm cả. Nó trước sau vẫn chỉ là công cụ, là phương tiện phục vụ cho sản xuất và đời sống của con người.

Vấn đề chỉ là ở thái độ của mỗi người chúng ta đối với nó. Nếu thèm khát đồng tiền một cách điền cuồng, chạy theo đồng tiền đến mê muội, làm cả những việc thất nhân tâm, không tình không nghĩa thì đó là thái độ của kẻ bóc lột, kẻ lạc lậu. Nếu để cho đồng tiền lôi kéo, làm cho sa đọa đến mục nát cả tâm hồn, mất hết hết cả ý chí thì đó là thái độ của kẻ bạc nhược, không bản lĩnh. Chỉ có đối xử với đồng tiền một cách đúng mức, sử dụng đồng tiền một cách khoa học theo đúng tính chất và vai trò của nó mới là thái độ của người biết suy nghĩ, có lương tâm, trọng danh dự, mới là thái độ của người biết làm chủ.

DSC01293

  1. HỐI LỘ

Cả từ “hối” lẫn từ “lộ” viết theo kiểu chữ Hán đều có bộ “bối” (có nghĩa là tiền bạc). Hối lộ cũng có luật cung cầu của nó. Sỡ dĩ còn có người đi hối lộ là bởi vì còn có người muốn ăn hối lộ. Ngược lại, sỡ dĩ còn có người muốn ăn hối lộ là vì còn có người “cần” đi hối lộ. Có ai lại không phẩn nộ trước tệ hối lộ. Ấy thế nhưng, lại có một số người, một số tập thể lên án rất gay gắt những trường hợp hối lộ chung quanh, song khi đến lượt mình, tập thể mình, thì chính họ cũng chọn con đường này, xem đó là con đường ngắn nhất “kinh tế” nhất dẫn đến đích riêng, lợi riêng.

Mất một ít tiền cho con có một chỗ học còn đỡ tốn hơn là để nó phải học lại một năm. Cho nó vài chục để có vé đi ngay, còn hơn là nằm lại tốn bạc tiêu pha, ăn chực năm chờ đợi xe, …

“Vi thiềng” cho nó hút thuốc để nó sửa ngay cho đường dây, không nó lại kiếm cớ lây nhây biết bao giờ nhà mình mới có điện dùng, …

Những cách tính toán như vậy hiện đang tạo ra mãnh đất cho hối lộ dung thân.

Hối lộ cũng như các tệ nạn khác, dĩ nhiên chưa thể quét sạch ngay một lúc.

 

  1. CHỨC VỤ-UY TÍN

Thông thường, bất cứ người lãnh đạo nào cũng phải có một uy tín nhất định. Chức vụ càng cao thì uy tín càng lớn. Bởi vì không có uy tín thì không thể lãnh đạo, thuyết phục và tập hợp người khác được. Uy tín là điều kiện bảo đảm hiệu quả công tác của người lãnh đạo. Người lãnh đạo không có uy tín thì nói chẳng ai nghe, làm chẳng nên trò trống gì. Vã chăng khi tập thể và cấp trên giao cho người nào đó một chức vụ nào đó tức là đã căn cứ vào phẩm chất, năng lực và uy tín của anh ta rồi. Không có uy tín, làm sao anh ta có thể được cất nhắc, đề bạc được an?

Nhưng dĩ nhiên sự đời không đơn giản như vậy ? Không phải hễ cứ có chức vụ là đã có uy tín, càng không phải đã có uy tín đầy đủ. Uy tín theo đúng nghĩa chân chính của nó là sự tín nhiệm mà người có được bằng chính phẩm chất và tài năng của mình. Chức vụ không đẻ ra uy tín, không quyết tín uy tín. Uy tín không phải bao giờ cũng tỷ lệ thuận với chức vụ. Thực tế đã chẳng có những người ở cương vị khá cao, thậm chí rất cao nhưng lại không có uy tín hoặc uy tín quá thấp đó sao ? Ở nơi này nơi nọ, đã chẳng có những “thủ trưởng” nói mà quần chúng và cấp dưới không muốn nghe, thậm chí còn bị quần chúng chê trách, muốn “tẩy chay” đó sao ?

Rõ ràng, giữa chức vụ và uy tín tuy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nương tựa vào nhau nhưng không phải là một. Theo ý nghĩa nào đó, có thể hiểu mối quan hệ giữa chức vụ và uy tin như là mối quan hệ giữa hình thức và nội dung. Chức vụ là hình thức, còn uy tín là nội dung. Chức vụ là điều kiện khách quan để củng cố và nâng cao uy tín, trong khi đó uy tín là cái quyết định sự tồn tại của chức vụ. Nếu uy tín mất đi thì theo quy luật thông thường, chức vụ trước sau cũng sẽ mất theo.

Hồ Chủ Tịch nói “Trước quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ công sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

 DSC01260

  1. ĐỊA VỊ

Bản thân hai tiếng ấy chẳng có gì đáng ghét, bởi vì địa vị chỉ đơn thuần có nghĩa là chổ đứng, là ngôi thứ. Cái mà người ta thường phê phán là tư tưởng địa vị, bởi vì điều đó hoàn toàn trái ngược với bản chất của con người đảng viên cộng sản hay con người mới xã hội chủ nghĩa.

Bác Hồ nói rằng “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh, phú quý chút nào. Bây giờ gánh chức Chủ tịch là do đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui”, “Chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Ngày nay chúng ta đang xây dựng một nền đạo đức mới – đạo đức của giai cấp vô sản. Muốn đạo đức mới thì phải đấu tranh khắc phục những ảnh hưởng của tàn tích đạo đức củ một cách triệt để.

DSC01255

  1. LIÊN HOAN

Trong đời sống thường ngày thiếu gì những cuộc liên hoan: mừng một đám cưới, một đứa con đầu lòng ra đời, chào mừng một công trình, nhân dịp hội nghị tổng kết, nhân những ngày lễ, ngày tết, …v.v. Vào những dịp đó, người ta gặp gỡ nhau, tay bắt mặt mừng, nâng cốc chúc nhau và tự hào về nhau.

Đó là là những cuộc liên hoan theo đúng nghĩa chân chính của nó.

Song giờ đây, ở nhiều nơi đang có không ít những cuộc “liên hoan” không còn đúng tính chất và ý nghĩa chân chính của nó nữa. Người ta liên hoan lu bù, đánh chén bừa bãi, tiêu tốn rất nhiều tiền của của nhà nước và tập thể. Có những cuộc họp chẳng cần liên hoan họ cũng bày đặt ra để chè chén. Có những cuộc liên hoan chỉ nên làm vừa mức thì họ cũng phóng cho to ra, tiệc tùng nhậu nhẹt linh đình. Thôi thì đủ kiểu, đủ cách: nào tiệc mặn, tiệt ngọt, nào tiệc đứng, tiệc ngồi, nơi này rược na-pô-lê-ông chính hiệu, nơi kia “chất cay” mười phần nếp cái, cơ quan kinh tế ăn theo “dạng kinh tế”, cơ quan văn hóa ăn theo “mốt văn hóa”, nơi đặc sản này, nơi đặc sản khác, ăn công khai và cả ăn bí mật, dấm dúi, …v.v. Sang trong đến mức trong thực đơn thấy có cả yến sào và tôm hùm nguyên con !

Liệu rằng ta phải tính sao đây với kiểu “liên hoan” kia ? Thật ra, nhiều người chẳng thích thú gì cái chuyện ăn uống tốn kém, mệt người như thế. Trong hoàn cảnh còn khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, phải vay ngược xuôi để lo cho được một bửa liên hoan hoặc một buổi họp hoặc một bữa tiếp khách là điều cực chẳng đã mà họ phải làm. Nếu gặp phải những vị khách lại “gợi ý” về việc ăn sang thì họ càng ngán ngẫm. Nhưng cũng có người thích đánh chén thật sự. Họ cho rằng gặp nhau mà có chút “nhấm nháp” mới vui, họp mà có liên hoan mới xôm trò ?! Vã lại có như thế, cán bộ và nhân viên mới được dịp “cải thiện” !

Điều chú ý nữa là những cuộc liên hoan linh đình như thế có khi cũng là đầu mối của nhiều nổi bất hòa, mất đoàn kết nội bộ. là nguyên nhân phát sinh những thói hư, tật xấu: nhậu nhẹt nói ăn tùy tiện, làm biến chất con người. Chung quanh mâm cơm chén rượu không phải không có những chuyện tiêu cực đã xãy ra. Có kẻ đã lợi dụng bữa liên hoan chiêu đãi làm phương tiện để khoa trương thành tích hoặc che dấu tội lỗi, lừa dối cấp trên, hoặc lừa bịp dư luận, vỗ về, ve vuốt những ngức có chức có quyền, móc ngoặc, tham ô vật tư, hàng hóa của nhà nước, nam nữ bất chính, …v.v.

Thực tế đã chẳng có những anh “đục nước béo cò”, chẳng phải có một số người “há miệng mắc quai” vì những bữa “chén thù chèn tạc” đó sao ? Bao giờ mới hết tình trạng nầy thì xã hội mới tiến lên.